Nội dung có ở: English Indonesia (Indonesian)
Điểm nổi bật từ Diễn đàn Khoa học Gia cầm Quốc tế 2025
Diễn đàn Khoa học Gia Cầm Quốc tế (IPSF) 2025 diễn ra vào ngày 27–28 tháng 1 tại Atlanta, GA, ngay trước thềm Triển lãm Quốc tế về Sản xuất và Chế biến (IPPE). Hơn 1.630 người đã tham dự sự kiện, tiếp tục khẳng định đây là một trong những diễn đàn khoa học ngành gia cầm thường niên lớn nhất thế giới.
- Năm nay, diễn đàn ghi nhận con số kỷ lục với 419 bài báo cáo, bao gồm 225 bài thuyết trình miệng và 194 poster.
- Các phiên họp bắt đầu từ 7 giờ sáng và kết thúc vào lúc 5 giờ chiều.
Chủ đề được trình bày rất đa dạng, bao gồm các lĩnh vực như:
- Sinh sản,
- Sinh lý học (22 bài thuyết trình miệng và 14 poster),
- Dinh dưỡng gia cầm (107 bài thuyết trình miệng– 50% liên quan đến phụ gia thức ăn; 86 poster – 60% cũng về phụ gia),
- Môi trường và quản lý chăn nuôi (18 bài thuyết trình miệng và 18 poster),
- Trí tuệ nhân tạo và quản lý dữ liệu,
- Bệnh lý và phòng ngừa bệnh gia cầm (64 bài),
- Phúc lợi động vật và hành vi (32 bài),
- Chế biến và sản phẩm gia cầm (12 bài),
- Chế biến và sản phẩm gia cầm (12 bài),
- An toàn thực phẩm (55 bài).
Bài viết này sẽ tập trung nêu bật một số bài thuyết trình trong các lĩnh vực chăn nuôi giống, sinh sản và chế biến thức ăn chăn nuôi. Khuyến khích độc giả tham dự sự kiện này vào năm sau để có cái nhìn rõ hơn về chất lượng nghiên cứu được trình bày tại hội nghị.
CHĂN NUÔI VÀ SINH SẢN
Tỉa lông vùng hậu môn giúp cải thiện hiệu suất sinh sản của gà trống giống trứng
Tiến sĩ Ricardo Pereira từ Đại học São Paulo đã thảo luận một thí nghiệm thực hiện trong điều kiện trang trại thương mại, đánh giá việc tỉa lông vùng hậu môn hàng tháng ở gà trống nhằm cải thiện các chỉ số sinh sản.
- Việc tỉa lông giúp giảm tỷ lệ không thụ tinh ở tuần tuổi 63 từ 1,14% đến 3,26% so với nhóm đối chứng.
- Tỷ lệ nở tăng từ 2,63% đến 4,27%.
Bổ sung huyết tương phun sấy vào khẩu phần ăn giúp cải thiện chất lượng tinh trùng ở gà trống giống già.
Mario Lopes đến từ Đại học São Paulo đã trình bày kết quả nghiên cứu cho thấy việc bổ sung 1% huyết tương phun sấy vào khẩu phần ăn của gà trống giúp giảm dị tật tinh trùng ở tuần tuổi thứ 63 so với nhóm không bổ sung.
- Tỷ lệ tử vong phôi giai đoạn cuối cũng giảm.
- Ricardo Rauber từ công ty Vetinova (Brazil) đã trình bày một nghiên cứu đánh giá rủi ro do độc tố nấm mốc, sử dụng dữ liệu từ 13 đàn gà giống thịt trong độ tuổi từ 25 đến 70 tuần.
- Kết quả nghiên cứu cho thấy các độc tố fumonisin và deoxynivalenol (DON) làm giảm khả năng thụ tinh; còn aflatoxin, fumonisin và DON đều làm giảm tỷ lệ nở.
Vắc-xin đa kháng nguyên giúp tăng cường miễn dịch cho mẹ và con chống lại vi khuẩn Campylobacter ở gà
- Mostafa Admed từ Đại học Clemson báo cáo rằng vắc-xin được tạo ra từ protein màng ngoài của C. jejuni kết hợp với chất kích thích thụ thể Toll số 21 (CpG ODN) đã giúp miễn dịch cho gà mái giống, làm giảm lượng C. jejuni trong phân xuống 1,02 Log10 vào tuần thứ 4 và 1,37 Log10 ở tuần thứ 10 sau tiêm chủng.
- Vắc-xin giúp tăng nồng độ kháng thể IgY và IgM trong lòng đỏ trứng và gà con so với nhóm đối chứng.
- Khả năng miễn dịch ở gà con kéo dài đến 5 tuần sau khi nở.
- Tanmaie Kalapala từ Đại học Arkansas cũng đã chứng minh rằng vắc-xin chống C. jejuni có hiệu quả trong việc kích thích sản xuất IgY, IgM và IgA, những kháng thể này có thể truyền sang thế hệ sau.
- Loại vắc-xin này có thể đóng vai trò then chốt trong việc kiểm soát Campylobacter ở gia cầm.
Tác động của việc rút máng ăn đến hành vi sau ăn của gà mái giống bị hạn chế thức ăn ở tuần tuổi thứ 10 và 15.
- Mazette Croom từ Đại học Texas A&M đã trình bày kết quả nghiên cứu đánh giá hành vi của gà mái giống trong thời kỳ bị hạn chế thức ăn nghiêm ngặt nhất.
- Quan sát cho thấy việc rút máng ăn làm giảm hoạt động đi lại 3% ở tuần thứ 10 và 51,7% ở tuần thứ 15, và giảm hành vi mổ vào đồ vật lần lượt 23,8% và 47,7%.
- Việc rút máng ăn khiến nhiều con gia cầm thể hiện hành vi bảo trì (tăng 4,9%), không hoạt động (tăng 10,6%) và tìm kiếm thức ăn (tăng 11,3%).
- Các nhà nghiên cứu cũng quan sát thấy sự khác biệt giữa các dòng di truyền về hành vi mổ vào vật thể, trong đó một dòng có hành vi này cao hơn 44,4% so với dòng còn lại.
- Việc rút máng ăn có thể giúp giảm căng thẳng do đói, nhưng cần điều chỉnh biện pháp quản lý này tùy theo độ tuổi và giống.
Phản ứng kháng thể đối với các loại vắc-xin vô hoạt 2 thành phần và 4 thành phần chứa IBD, Reo, NDV và IBV.
- Dự án này cũng đánh giá hiệu quả của các loại vắc-xin vô hoạt chứa virus Gumboro (IBDV) và Reovirus (Reo) trong hai loại vắc-xin thương mại 2 thành phần từ hai nhà sản xuất khác nhau, cùng với hai loại vắc-xin 4 thành phần có thêm Newcastle (NDV) và viêm phế quản truyền nhiễm (IBV).
- Các sản phẩm từ một nhà sản xuất tạo ra phản ứng miễn dịch mạnh hơn so với sản phẩm của nhà sản xuất còn lại.
- So với giá trị huyết thanh ban đầu, chương trình sử dụng vắc-xin 2 và 4 thành phần của nhà sản xuất B giúp tăng hiệu giá kháng thể chống lại IBDV 88%, Reo 93% và IBV 29%.
- Việc sử dụng hoặc kết hợp với vắc-xin của nhà sản xuất A cũng giúp tăng hiệu giá kháng thể, tuy nhiên không mạnh bằng khi sử dụng hoàn toàn sản phẩm của nhà sản xuất B.
- Dữ liệu này cho thấy các loại vắc-xin vô hoạt có khả năng kích thích phản ứng miễn dịch khác nhau tùy theo nguồn gốc, và yếu tố này cần được cân nhắc khi xây dựng chương trình tiêm chủng cho gà giống thịt nhằm tối ưu hóa hiệu quả bảo vệ.
XỬ LÝ THỨC ĂN CHĂN NUÔI
Sự tương tác giữa nhiệt độ môi trường và nhiệt độ xử lý làm thay đổi động lực học của hơi nước trong quá trình ép viên
- Alexis Renner từ Đại học West Virginia là người trình bày nghiên cứu này.
- Quy trình ép viên bao gồm xử lý bột nghiền bằng hơi nước, đùn hỗn hợp đã xử lý qua khuôn ép và làm mát.
- Xử lý bằng hơi nước bổ sung nhiệt và độ ẩm, hỗ trợ hình thành viên và tăng tốc độ sản xuất.
- Nghiên cứu này tìm hiểu cách nhiệt độ môi trường tương tác với các mức nhiệt độ xử lý bằng hơi nước để ảnh hưởng đến quá trình bổ sung độ ẩm và toàn bộ quá trình ép viên.
- Thiết kế nghiên cứu theo kiểu chia lô, gồm hai lô chính (nhiệt độ môi trường: -1 và 16°C) và ba lô phụ (nhiệt độ xử lý: 66, 74 và 82°C), mỗi tổ hợp được lặp lại ba lần.
Nhiệt độ xử lý tăng làm tăng độ ẩm của hỗn hợp đã xử lý và độ ẩm của viên thức ăn nóng, bất kể nhiệt độ môi trường xung quanh.
- Tải trọng động cơ của máy ép viên giảm khi nhiệt độ xử lý tăng và có xu hướng giảm ở nhiệt độ môi trường 16°C.
- Hàm lượng ẩm đo trên viên sau khi làm mát trong 12 phút cho thấy có sự tương tác giữa nhiệt độ môi trường và nhiệt độ xử lý.
- Độ ẩm của viên không thay đổi khi nhiệt độ môi trường là 16°C, bất kể nhiệt độ xử lý; nhưng tăng dần theo nhiệt độ xử lý khi nhiệt độ môi trường là -1°C.
- Tốc độ sản xuất viên chịu ảnh hưởng bởi sự tương tác giữa nhiệt độ môi trường và nhiệt độ xử lý.
- Khi nhiệt độ môi trường là -1°C, tốc độ sản xuất không thay đổi theo các mức nhiệt độ xử lý.
- Tuy nhiên, ở nhiệt độ môi trường 16°C, tốc độ sản xuất tăng 4% khi nhiệt độ xử lý tăng từ 74°C lên 82°C.
- Điều kiện môi trường 16°C tạo ra hơi nước giúp tăng tốc độ sản xuất ở nhiệt độ xử lý 82°C và viên sau khi làm mát giữ ít độ ẩm hơn, có thể do lượng nước được sử dụng nhiều hơn cho việc bôi trơn tại khuôn ép viên.
- Có khả năng các bẫy hơi nhiệt động trong nhà máy thử nghiệm mở thường xuyên hơn ở nhiệt độ môi trường -1°C, dẫn đến hơi nước khô hơn.
- Độ ẩm của hỗn hợp sau xử lý không tăng ở điều kiện môi trường 16°C, có thể do hiện tượng bốc hơi nhanh hơn trong quá trình đo.
Những dữ liệu này cho thấy nhiệt độ môi trường có thể làm thay đổi động lực hơi nước, từ đó ảnh hưởng đến quá trình tạo viên.
Xử lý ở nhiệt độ trên 70°C và ép viên khẩu phần có thành phần chính là bắp và khô đậu nành chưa xử lý đạt giúp làm giảm tác động của các yếu tố phản dinh dưỡng
- Reuben Adejuno từ Đại học West Virginia đã chỉ ra rằng các khẩu phần chứa khô đậu nành chưa xử lý đạt, khi được xử lý ở nhiệt độ trên 70°C và ép viên, có thể giảm tác động tiêu cực đến hiệu suất do các yếu tố phản dinh dưỡng.
- Nhóm nghiên cứu đã đánh giá 9 phương án xử lý từ một thí nghiệm theo mô hình nhân tố, gồm 3 loại khô đậu nành (chưa xử lý đạt, xử lý tối ưu và xử lý quá mức) và 3 mức nhiệt độ xử lý (70, 80 và 90°C) trong 30 giây.
- Khẩu phần cho giai đoạn gà con được xây dựng dựa trên nhu cầu axit amin tiêu hóa, chỉ khác nhau về loại khô đậu nành được sử dụng.
- Khẩu phần được cho ăn trong 18 ngày, sau đó tiến hành phân tích đối chiếu để xác định sự khác biệt giữa các phương án.
- Lượng thức ăn tiêu thụ tăng khi nhiệt độ xử lý tăng.
- Có sự tương tác giữa loại khô đậu nành và nhiệt độ xử lý; theo đó, gia cầm được ăn khẩu phần chứa khô đậu nành xử lý chưa đạt sẽ tăng cân nhiều hơn khi nhiệt độ xử lý tăng.
- Ngược lại, mức tăng trọng cơ thể lại giảm đối với khẩu phần xử lý tối ưu.
- Khi tăng nhiệt độ xử lý của khẩu phần chưa đạt lên 80° mức tăng trọng được phục hồi tương đương với khẩu phần đã được xử lý tối ưu ở 70°.
- Hệ số chuyển hóa thức ăn tăng ở khẩu phần xử lý tối ưu và giảm ở các khẩu phần chưa xử lý đạt khi tăng nhiệt độ xử lý.
- Gia cầm ăn khẩu phần xử lý quá mức có mức tăng trọng thấp nhất và lượng ăn vào thấp nhất.
- Khả năng tiêu hóa của tất cả các axit amin tăng lên khi nhiệt độ xử lý khẩu phần chưa đạt tăng từ 70° lên 80° và không thay đổi đối với khẩu phần xử lý tối ưu.
The International Poultry Scientific Forum (IPSF) sẽ quy tụ các nhà khoa học xuất sắc, cung cấp những thông tin hữu ích cho các ngành công nghiệp đa lĩnh vực.Những bài viết tiếp theo của AviNews International sẽ tiếp tục trình bày thêm các kết quả nghiên cứu được giới thiệu tại IPSF. Hội nghị lần tới được lên lịch vào ngày 26 và 27 tháng 1 năm 2026, tiếp tục diễn ra tại Trung tâm Hội nghị Thế giới Georgia, Atlanta, GA.