Site icon aviNews, la revista global de avicultura

Nguyên tắc an toàn sinh học trong chăn nuôi gia cầm với sự chú trọng vào kiểm soát của hội chứng rối loạn đường ruột – Một quan điểm mới

Escrito por: avinews vietnam
PDF

Conteúdo disponível em: English Indonesia (Indonesian) Philipino

Trong bối cảnh sức khỏe vật nuôi, việc phòng ngừa các bệnh truyền nhiễm trong các đàn gia cầm, dù là để phòng ngừa hay kiểm soát, thì luôn nhắm đến quần thể của một khu vực địa lý nhất định (Bảo vệ Sức khỏe vật nuôi) hoặc tại các cơ sở chăn nuôi gia cầm (Thú y Phòng bệnh/An toàn sinh học) và yêu cầu cơ bản để áp dụng là hiểu biết về dịch tễ học của bệnh truyền nhiễm.

Đây là một môn khoa học nghiên cứu về cơ chế lây truyền bệnh trong quần thể vật nuôi và các biện pháp phòng ngừa cần được áp dụng dựa trên hiểu biết về tác nhân gây bệnh, vật chủ và môi trường.

Đó là khả năng giải quyết vấn đề bằng cách học hỏi và suy nghĩ chủ động trong việc phác thảo một chương trình bảo vệ sức khỏe gia cầm.

Hình 1: Minh họa các cột khám lâm sàng, bệnh học và dịch tễ học

Dịch tễ học làm cơ sở khoa học cho áp dụng Bảo vệ Sức khỏe Vật nuôi và An toàn sinh học.

Do đó, các biện pháp an toàn sinh học là các hành động tiến hành trên mỗi thành phần khác nhau của môi trường.

Một chương trình kiểm soát bệnh phải được thiết kế tốt trên cả hai phương diện sinh học (hiệu quả) và kinh tế (hiệu năng). Chương trình cũng phải linh động để có thể thích ứng theo những thay đổi của tình hình dựa trên tần suất bệnh nhiễm, điều kiện kinh tế (chi phí-lợi ích), điều kiện chính trị hoặc xã hội-khí hậu đòi hỏi phải thay đổi chương trình.

Nội dung của bài này là về chăn nuôi đàn gia cầm thương mại mà không nhấn mạnh cụ thể mảng chăn nuôi khác như gà thịt nuôi thả rông, gà mái đẻ thương phẩm không nuôi lồng.

CÂN NHẮC VỀ QUAN HỆ GIỮA NGUYÊN NHÂN, VẬT CHỦ VÀ MÔI TRƯỜNG

Tác nhân gây bệnh (mầm bệnh)

Chúng sẽ được đề cập đơn giản là mầm bệnh hoặc tác nhân gây viêm ruột vì theo hướng tiếp cận dịch tễ học, chúng sẽ được coi là tác nhân gây bệnh đường ruột, mặc dù thực tế là mỗi tác nhân được đại diện bởi vô số loài. Điểm đặc trưng của những tác nhân này là sự bị đào thải qua phân, có khả năng chống chịu cao với các điều kiện môi trường giúp chúng vẫn sống sót trong nhiều tháng và xâm nhập vào cơ thể vật chủ mới qua mỏ (miệng), do đó mà thuật ngữ là bệnh lây truyền qua đường phân-miệng.

Vật chủ

Tác nhân gây viêm ruột không kén chọn vật chủ. Thông tin này giúp chúng ta có cơ sở khoa học để kiểm soát một nhóm tác nhân gây hội chứng rối loạn đường ruột trong một quần thể vật nuôi và vô hiệu hóa bất cứ quy trình kiểm soát nào nhắm đến một hoặc một số tác nhân gây bệnh. Nếu lấy vi khuẩn Salmonella làm ví dụ, ta sẽ thấy chúng có thể lây nhiễm cho hơn 2,600 loài vật chủ máu lạnh và máu nóng.

Môi trường

Mối quan hệ vật chủ-ký sinh được điều chỉnh bởi môi trường vốn chứa nhiều thành phần đa dạng, như các điều kiện kinh tế xã hội (nghèo đói và giàu có; trình độ học vấn), khí hậu, tính chất của đất, thảm thực vật rừng (sự hiện diện của thú ăn thịt, chim hoang dã, thú hoang dã), bản chất của việc khai thác động vật (chỉ chăn nuôi giống gia cầm hoặc với các loài vật nuôi khác), sự hiện diện của các trang trại thả rông và sân vườn, v.v. Sự cân bằng của quan hệ vật chủ-ký sinh chỉ đạt được khi môi trường thuận lợi cho chăn nuôi sản xuất gia cầm. Và đây là mục tiêu của chương trình và khi điều kiện không thuận lợi, chăn nuôi gia cầm phải đối mặt với sự gia tăng nguy cơ dịch bệnh và thiệt hại liên quan.

Cần lưu ý rằng trong phòng bệnh (diệt trừ, phòng ngừa và kiểm soát), các biện pháp được áp dụng cho mỗi thành phần khác nhau của môi trường.

Khi các biện pháp phòng ngừa làm cân bằng giữa lực phòng vệ của vật chủ và lực tấn công của môi trường, dịch bệnh sẽ biểu hiện ở mức độ được kiểm soát, như thể hiện trong hình bên dưới, và năng suất không bị ảnh hưởng. Sự cân bằng giữa các dĩa này thể hiện sự cân bằng giữa lực phòng thủ của vật chủ và lực tấn công của môi trường.

Chuỗi lây truyền các bệnh tạo nên hội chứng rối loạn ruột.

Chuỗi lây truyền hay chuỗi dịch tễ bao gồm các mắt xích sau:

NGUỒN LÂY NHIỄM

Các loài chim được nuôi và chim sống tự do bao gồm cả các loài hoang dã chứa ký sinh trùng trong cơ thể chúng và thải ra môi trường. Chúng có thể là vật mang bệnh, vật mang mầm bệnh (khỏe mạnh, đang ủ bệnh hoặc đang hồi phục và vật chứa bệnh) – các loài chim khác và vật nuôi và thú hoang dã.

CÁC ĐƯỜNG LOẠI THẢI

Con đường hoặc phương tiện mà vật ký sinh sử dụng để đi vào môi trường. Đó là phân.

CÁC ĐƯỜNG LÂY TRUYỀN

Phương tiện hoặc thiết bị vận chuyển mà ký sinh dùng để xâm nhập vào vật chủ mới. Đó là nước, thức ăn, đệm nền chuồng, ruồi, bọ cánh cứng, ủng, tay bị tạp nhiễm bởi ký sinh.

NƠI THÂM NHẬP

Ký sinh tiếp cận vật chủ mới qua miệng.

NGUY CƠ BỊ NHIỄM

Vật chủ mới bị lây nhiễm.

Ghi chú

Nếu không có biện pháp kiểm soát hiệu quả, chu kỳ này sẽ lặp lại vô tận trong đàn vật nuôi, dẫn đến tình trạng gia tăng dần dần tỷ lệ mắc bệnh trong đàn.

BIỆN PHÁP PHÒNG NGỪA

Biện pháp đối với nguồn lây nhiễm

Điều trị gia cầm khi cần thiết và loại bỏ vật nuôi theo quy định pháp luật (như trường hợp vi khuẩn salmonella).

Biện pháp đối với đường lây truyền

Hàng rào trên tường để ngăn vật nuôi ra khỏi nhà ấp; rào chắn vệ sinh (cổng vệ sinh) và vệ sinh nhân viên và khách tham quan); rửa dọn khu vực bên ngoài chuồng trại (tập trung vào các loài gặm nhấm và ruồi); xử lý toàn bộ hệ thống nước uống, hệ thống lưu trữ và phân phối; thu gom và xử lý chất thải và vật nuôi chết; vệ sinh và sát trùng sàn nhà, máng ăn, vòi nước uống, bạt trong khoảng không vệ sinh; kiểm soát bọ cánh cứng trong máy hút bụi vệ sinh; Phòng ngừa và kiểm soát các loài gây hại (thú gặm nhấm, ruồi và bọ cánh cứng trong thời gian lưu trú).

Biện pháp đối với tình trạng dễ bị nguy cơ

Chủng ngừa vắc-xin khi có thể.

SOẠN THẢO CHƯƠNG TRÌNH KIỂM SOÁT HỘI CHỨNG RỐI LOẠN ĐƯỜNG RUỘT – AN TOÀN SINH HỌC:

1. HƯỚNG DẪN

Xác định mục tiêu ban đầu, mục tiêu trung đoạn và mục tiêu cuối cùng. Soạn thảo Hướng dẫn Quy trình và chuẩn bị các tờ quy trình vận hành chuẩn (standard operating procedure – SOP);

2. THỰC HIỆN

Giai đoạn chuẩn bị: tập hợp tất cả mọi điều cần để đạt mục tiêu như ước tính chi phí, lựa chọn nhân viên, phân công trách nhiệm, tập huấn nhân viên, đào tạo bác sĩ thú y về dịch tễ học (cơ bản và chuyên sâu) và thống kê sinh học (biostatisitcs). Tập huấn nên tuân thủ các nguyên tắc kiểm soát & bảo đảm chất lượng hiện đại, bao gồm cả tự giám sát.

Attack phase: áp dụng liên tục và có hệ thống các quy trình. Bao gồm đánh giá định kỳ để khắc phục/điều chỉnh nếu cần thiết.

Giai đoạn củng cố: để đạt được mục tiêu cuối cùng thì cần điều chỉnh các biện pháp an toàn sinh học để ngăn ngừa sự tái phát của các dịch bệnh nhiễm

Giai đoạn duy trì: tiếp tục như giai đoạn trước nhưng tích hợp vào Kế hoạch bảo vệ sức khỏe vật nuôi tại cơ sở hoặc khu vực chăn nuôi.

Đánh giá: tiến hành đánh giá định kỳ thông qua thực hiện các xét nghiệm trong phòng lab kiểm tra sự hiện hữu của tác nhân gây bệnh, và đặc biệt thông qua phân tích thống kê dữ liệu sức khỏe vật nuôi (tỷ lệ bệnh, tỷ lệ chết); các dữ liệu năng suất.

Tính toán thống kê chỉ cần đơn giản, như kiểm tra sự khác biệt giữa các tỷ lệ các biến số định tính và kiểm tra sự khác biệt giữa các giá trị trung bình của các biến định lượng, luôn được thiết lập, một priori, mức độ bác bỏ giả thuyết vô hiệu (α ou p).

Các thành phần của biện pháp an toàn sinh học: an toàn sinh học khái niệm, an toàn sinh học vận hành, an toàn sinh học cấu trúc.

An toàn sinh học khái niệm: chỉ các biện pháp phòng ngừa hoặc kiểm soát các mối nguy cơ trong môi trường nhằm phân định các biện pháp liên quan đến hàng rào và cổng vệ sinh.

An toàn sinh học cấu trúc: chỉ các biện pháp phòng ngừa hoặc kiểm soát các mối nguy cơ hiện hữu trong các cơ sở, đồ vật, đồ dùng, nền chuồng, sinh vật gây hại, v.v.

An toàn sinh học vận hành: chỉ các biện pháp vệ sinh đối với nhân viên nội bộ, khách tham quan, nhân viên làm thuê và nhân viên chính thức.

 

PDF
Exit mobile version