Nguyên Nhân Khiến Thế Giới Chuyển Sang Nuôi Ổ Cộng Đàn
Ngành chăn nuôi gà giống hướng thịt ở cấp độ ông bà (grandparent stock) và bố mẹ (parent stock) đang được nâng cấp với công nghệ cao hơn, nhằm cố gắng giảm chi phí ấp trứng và để quản lý đàn gà giống với quy mô lớn hơn, tốn ít lao động hơn và sản xuất được trứng có chất lượng cao hơn.
- Nhiều quốc gia đang bị cảnh thiếu hụt lao động, và lực lượng lao động thủ công hiện hữu thường bị vấn đề chất lượng kỹ thuật thấp và cần được đào tạo nhiều cũng như tập huấn thường xuyên.
- Thu thập trứng là hoạt động hằng ngày tốn nhiều thời gian.
- Hiện nay có hai thiết kế nhà nuôi có công nghệ cao hoặc tự động hóa được áp dụng bởi các nhà chăn nuôi sản xuất gà giống hướng thịt trên thế giới. Trong bài này, chúng tôi sẽ tạm gọi hai hệ thống này là Hệ thống Hoa Kỳ và Hệ thống Âu châu.
HỆ THỐNG HOA KỲ:
Về cơ bản chúng ta sẽ có tất cả các trang thiết bị cho gia cầm làm tổ, cho chúng ăn, và máng nước uống cho con mái trên sàn lát. Nhà nuôi sẽ có một khu vực cào (scratch area) ở trung tâm cho con trống với hệ thống cho ăn của chúng. Con trống cần phải đi trên sàn lát để uống nước.
Hệ thống Hoa Kỳ có một lợi điểm đáng kể: ít khi bị trứng trên sàn (floor eggs). Tuy nhiên, hệ thống này lại có một bất lợi đáng chú ý là mật độ con mái không thể thấp hơn 1,95 ft2/con mái hoặc cao hơn 5.5 con mái/m2 , và về mặt lý thuyết, đã ở mức cao, sau đó không gian máng ăn bị rút ngắn chỉ còn 4.7” (tương đương 12.1 cm).
- Gà mái trưởng thành cần 6” (tương đương 15 cm) để tất cả các con mái có thể vào ăn cùng một lúc. Điều này đặc biệt quan trọng trong giai đoạn từ 21 tuần tuổi đến thời kỳ sản xuất đạt đỉnh, khi việc loại bỏ thức ăn thừa có thể tiến hành rất nhanh nếu sử dụng thức ăn dạng crumble (mảnh) hoặc dạng pellet (ép viên).
Một nhược điểm khác là sàn lát phải cao ít nhất 17.7” (tương đươn 45 cm) để tránh tình trạng phân gà tích tụ bên dưới sàn lát và chảy lên qua sàn lát, làm bẩn và nhiễm bẩn chân của gà mái.
- Sàn lát cao thường đòi hỏi phải sử dụng nhiều chất độn chuồng (litter) hơn để giảm khoảng cách bước lên (step-up distance) của vật nuôi, gây tốn kém hơn và việc có nhiều chất độn chuồng hơn sẽ thu hút gà mái đẻ ở khu vực cào, gây thiệt hại về lượng trứng ấp nở hoặc tăng nguy cơ tạp nhiễm.
HỆ THỐNG ÂU CHÂU:
Hệ thống này sử dụng các ổ cộng đàn (community nests) lớn ở giữa nhà nuôi, tạo thêm không gian cho tổng diện tích nhà, thêm không gian cho máng ăn và nhờ đó, người chăn nuôi có thể tăng đáng kể mật độ con mái trong đàn giống trong nhà nuôi. Đây là một lợi thế lớn cho người chăn nuôi, giúp họ tăng đáng kể lợi tức đầu tư (Return on Investment-ROI) và dễ dàng vay vốn ngân hàng hơn với thu nhập cao hơn. Thị trường Hoa Kỳ có thể hưởng lợi rất nhiều từ hệ thống này.
- Mật độ gà mái cao hơn là yếu tố quan trọng nhất giúp giảm chi phí đầu tư cố định cho mỗi con gà mái, giảm giá thành ấp nở trứng. Hệ thống này đã được chứng thực trong 30 năm qua ở nhiều nơi trên thế giới. Điều quan trọng là chúng ta chưa bao gồm số con trống trong phép tính mật độ.
- Để xây dựng một nhà nuôi mới trên lý thuyết là xây dựng nhà rộng 46 ft hoặc 49 ft (tương đương 14-15 m) để tận dụng tối đa không gian máng ăn, máng uống và làm ổ. Một vòng máng ăn (feeder loop) khác sẽ được thêm vào, nâng tổng số lên bốn vòng máng ăn, sẽ cung cấp đủ không gian máng ăn cho gà mái.
Với khái niệm ổ cộng đàn, sàn lát gỗ cứng được sử dụng để đạt chiều cao sàn lát thấp là 14” (35 cm) trong giai đoạn đầu của quá trình sản xuất và sau đó dễ dàng nâng chiều cao của sàn lát gỗ lên 18” (45 cm) trong giai đoạn thứ 2 của quá trình sản xuất khi phân gà đã tích gần đến sàn lát gỗ.
- Gà mái có thói quen không tốt là thải ra phân khi chúng nhảy lên sàn lát gỗ.
- Việc này sẽ làm tích tụ nhiều phân hơn ở khu vực bước lên sàn lát.
- Chiều cao sàn lát không thể điều chỉnh được bằng sàn lát nhựa và những nhược điểm của sàn lát nhựa sẽ được bàn đến trong các bài sau.
Bảng sau đây so sánh rõ ràng hệ thống cơ giới hóa đơn giản nhất với hệ thống ổ cộng đàn. Là bước tiếp theo trong tự động hóa, sử dụng máy đóng gói trứng (egg packer) có thể tăng số lượng gà mái trên một lao động và do đó giảm đáng kể chi phí lao động, bên cạnh việc giảm chi phí cố định trên mỗi con gà mái do mật độ gia cầm cao hơn.
Mật độ gà mái ngày càng tăng là lý do chính khiến thế giới áp dụng hệ thống ổ cộng đàn của Âu châu chứ không phải hệ thống của Hoa Kỳ.
- Việc tăng mật độ gia cầm thường sẽ làm giảm sản lượng trứng ấp nở (hatching eggs-HE) trên mỗi con gà mái, nhưng có thể dễ dàng bù đắp bằng sản lượng HE cao hơn trên mỗi ft2 hoặc trên mỗi m2, giúp giảm tổng chi phí/HE.
- Việc tăng mật độ con mái thường không ảnh hưởng đến khả năng sinh sản hoặc khả năng nở miễn là sử dụng những con trống có thể trọng được kiểm soát và đồng bộ về sinh dục.
KẾT LUẬN
Thế giới đang chuyển hướng nhanh sang hệ thống ổ cộng đàn do hệ thống này giúp tăng mật độ gia cầm để giảm chi phí đầu tư cho mỗi con gà mái và giá thành trứng ấp nở.