Dinh Dưỡng Vật Nuôi

Tại sao nên phân biệt Bã đậu nành theo xuất xứ khi lập và tối ưu hóa công thức cám gia cầm?

PDF

Để đọc thêm nội dung từ aviNews Vietnamese

Nội dung có ở:
English Indonesia (Indonesian) ไทย (Thai)

GIA CẦM

DINH DƯỠNG CHUẨN XÁC 

Trong bối cảnh biến động mạnh của thị trường, ngành gia cầm đã chú ý đến khái niệm dinh dưỡng chuẩn xác. Một trong những khía cạnh chính của dinh dưỡng chuẩn xác là cải thiện thông tin cần thiết cho việc ra quyết định, lập kế hoạch và tối ưu hóa.

Chi phí thức ăn chăn nuôi chiếm một phần lớn trong chi phí sản xuất gia cầm. 

Sự biến thiên của hàm lượng dinh dưỡng trong thức ăn chăn nuôi là yếu tố quan trọng cần kiểm soát khi ta cố gắng giảm chi phí thức ăn, cải thiện chất lượng thức ăn và tối ưu hóa năng suất vật nuôi cũng như lợi nhuận của công ty.

Một giải pháp hợp lý và tương đối dễ dàng để giảm sự biến thiên này là phân loại các nguyên liệu theo nguồn gốc, nhà cung cấp hoặc chất lượng.

Những khó khăn trong sản xuất thức ăn chăn nuôi này ;àm hạn chế số lượng tập hợp nhóm chúng ta có thể làm cho mỗi loại nguyên liệu thức ăn chăn nuôi.

Tiếp tục sau quảng cáo.

Tuy nhiên, việc nhận biết khác biệt về thành phần dinh dưỡng, giá trị năng lượng và chất lượng sẽ giúp việc lập công thức thức ăn chuẩn xác hơn và giảm thiểu chi phí thức ăn nếu nguyên liệu thức ăn được chọn có chất lượng dinh dưỡng và giá trị năng lượng tốt.

Phân loại theo nguồn gốc giúp giảm thiểu rủi ro sản xuất thức ăn không đáp ứng các thông số kỹ thuật mong đợi.

Việc xử lý các nguyên liệu thức ăn chăn nuôi chủ chốt như các nguyên liệu hoặc hàng hóa bình thường thay vì các sản phẩm cần được phân biệt sẽ dẫn đến tình trạng đánh giá quá cao hoặc quá thấp giá trị dinh dưỡng và năng lượng của những nguyên liệu chủ chốt đó.

 Amy Moss và cộng sự (2021) đã tính toán rằng việc ước tính quá cao hàm lượng dinh dưỡng trong nguyên liệu thức ăn chăn nuôi sẽ giảm năng suất gà thịt và giảm 63% lợi nhuận ròng.

Điều này tương đương với thất thoát lên đến 6.3 triệu USD cho mỗi 10 triệu con gà thịt. Do đó, ta cần có phương pháp lấy mẫu thích hợp của tất cả các nguyên liệu thức ăn để ước tính giá trị dinh dưỡng và năng lượng của chúng.

GIÁ TRỊ BÃ ĐẬU NÀNH

Các nguyên liệu mắc nhất trong công thức cám của gà là năng lượng và protein hoặc a-xít amin. Bã đậu nành (soybean meal – SBM) là nguồn a-xít amin quan trọng nhất trong khẩu phần của gia cầm trên toàn thế giới.

SBM cũng cung cấp từ 20 đến 30% năng lượng chuyển hóa (metabolizable energy – ME) trong hầu hết các khẩu phần của gia cầm.

Do đó, việc ước tính chuẩn xác giá trị a-xít amin và caloric của nguyên liệu này là rất quan trọng để lập công thức thức ăn chuẩn xác.

Giá thị trường của SBM thường được xác định dựa trên các quy tắc thương mại quy định hàm lượng protein thô (crude protein – CP) tối thiểu.

Tuy nhiên, điều quan trọng ta cần lưu ý là giá trị dinh dưỡng phụ thuộc vào nhiều yếu tố chất lượng chế biến xử lý và dinh dưỡng khác ở gia cầm và hầu như không thể phân loại SBM chỉ theo hàm lượng CP trong một nhà máy thức ăn chăn nuôi.

Một đánh giá kinh tế gần đây của Pope và cộng sự (2023) đã định lượng giá trị của SBM trong khẩu phần của gia cầm và heo bị ảnh hưởng bởi hàm lượng dinh dưỡng của chúng. Dữ liệu của họ được thu thập bằng cách sử dụng năm hàm lượng CP SBM (44, 45, 46, 47 và 48%).

Họ tính toán giá trị ME, hàm lượng a-xít amin và khả năng tiêu hóa bằng phép hồi quy tuyến tính (linear regressions) hoặc phương trình chuẩn hóa (standardized equations) cho năm mức hàm lượng CP đó.

Nhóm này kết luận rằng việc tăng hàm lượng CP SBM lên 1% sẽ làm tăng giá trị SBM tương đối lên 12.62 đô la cho mỗi tấn (MT) trong khẩu phần của gia cầm.

Giá trị kinh tế tương đối của SBM ($/MT) được ước tính trong nghiên cứu này dựa trên những thay đổi về đặc tính dinh dưỡng của SBM (a-xít amin và năng lượng).

Giá trị tương đối của SBM ($/MT) = Giá SBM cơ sở ($/MT) – [Kiểm tra TDC – Cơ sở TDC)/ Kiểm tra SBM x 1000]

Trong đó, “TDC” là tổng chi phí khẩu phần (total diet cost) (đơn vị: $/MT) với giả định bao gồm SBM đã chỉ định và “SBM” là lượng SBM có trong khẩu phần (đơn vị: kg/MT).

Nhóm do Micah Pope dẫn đầu đã sử dụng SBM đó trong khẩu phần của gà thịt giai đoạn nuôi vỗ béo (broiler grower) và gà thịt giai đoạn nuôi xuất chuồng (broiler finisher) và trong một khẩu phần gà đẻ để có được những giá trị này. Giá trị tương đối của SBM cũng tăng khi CP tăng (Hình 1).

Dữ liệu cho thấy SBM 48.0% CP (3.01% tổng lysine) có mức giá là 49 USD trong khẩu phần của gà thịt và 52 đô la Mỹ trong khẩu phần của gà đẻ trên mỗi tấn so với 44.0% CP (2,75% tổng lysine). Cũng cần lưu ý rằng giá trị tương đối của SBM là tương tự nhau ở cả hai nhóm gia cầm.

BÃ ĐẬU NÀNH THAY ĐỔI TÙY THEO QUỐC GIA SẢN XUẤT

SBM được trao đổi thương mại trên toàn cầu và các nước sản xuất SBM chính là Hoa Kỳ, Brazil, Argentina và Ấn Độ. SBM có thể thay đổi do nhiều yếu tố, bao gồm hạt giống, điều kiện trồng trọt và thu hoạch, chế biến xử lý và bảo quản đậu nành.

Một số nghiên cứu được tiến hành trong 20 năm qua để xác định yếu tố nào liên quan nhiều hơn đến sự thay đổi SBM.

Có bằng chứng rõ ràng rằng SBM thay đổi tùy theo quốc gia sản xuất đậu nành. Điều này có thể liên quan đến vĩ độ, bức xạ mặt trời và thời tiết trong quá trình sinh trưởng của thực vật (đậu nành).

Do đó, đây có thể là yếu tố chính dẫn đến sự phân loại SBM tại các nhà máy thức ăn chăn nuôi khi tiếp nhận nguyên liệu từ nhiều quốc gia sản xuất khác nhau hoặc là yếu tố quyết định trong việc lựa chọn nhà cung cấp trong quá trình mua hàng.

Thông tin từ 18 nghiên cứu đã công bố với tổng số 1,944 mẫu SBM đã được tóm tắt trong phân tích tổng hợp của Ibáñez và cộng sự (2020). (2020). Dữ liệu này chỉ ra rằng:

Nguồn gốc của đậu nành có tác động nhất quán và đáng kể đến hầu hết các biến số hóa học của SBM tương ứng. SBM của Brazil có nhiều CP, chất xơ trung tính (neutral detergent fiber), raffinose và sắt nhưng lại có ít sucrose, stachyose và Kali (potassium) hơn SBM của Hoa Kỳ hoặc Argentina.

SBM của Hoa Kỳ có nhiều sucrose và stachyose hơn nhưng lại chứa ít raffinose hơn. Trên mỗi đơn vị protein, nồng độ Lys, Met, Thr và Cys cao hơn đối với SBM của Hoa Kỳ và Argentina so với SBM của Brazil và Ấn Độ.

NIRS ĐỂ ƯỚC TÍNH HÀM LƯỢNG DINH DƯỠNG VÀ GIÁ TRỊ NĂNG LƯỢNG

Tất cả các nghiên cứu khoa học này đều được tiến hành trên các mẫu SBM chọn lọc và phân tích tại nhiều phòng thí nghiệm.

Do đó, có sự khác nhau giữa các phòng thí nghiệm và thời gian lấy mẫu cho mỗi phân tích.  Một công cụ có thể giảm thiểu sự khác nhau phân tích giữa hoặc trong các phòng thí nghiệm là máy quang phổ cận hồng ngoại (near-infrared spectroscop – NIRS).

Đường cong hiệu chuẩn (Calibration curves) đã được phát triển để ước tính bằng phổ NIRS các phân tích gần đúng (proximate analysis), hàm lượng a-xít amin và các dưỡng chất khác.

Hầu hết các phát triển này được thực hiện bởi các công ty tư nhân. Adisseo đã phát triển dịch vụ Đánh giá dinh dưỡng chuẩn xác (Precise Nutritional Evaluation – PNE) dựa trên công nghệ NIRS.

Đường cong hiệu chuẩn để xác định AME biểu kiến (apparent AME) và AME được hiệu chỉnh bằng nitơ (AME corrected by nitrogen – AMEn) và hệ số tiêu hóa (digestibility coefficients) của tất cả các a-xít amin thiết yếu đều dựa trên dữ liệu in vivo (trên sinh vật) và thu được bằng hiệu chuẩn trực tiếp.

Trong trường hợp này, cùng một mẫu được sử dụng để tạo ra phổ NIRS có thể tạo ra nhiều thông số ảnh hưởng đến chất lượng dinh dưỡng. Hệ thống PNE này đã được sử dụng trên thế giới trong nhiều năm; do đó, ta đã có một cơ sở dữ liệu lớn có sẵn.

Trong một nghiên cứu hợp tác với Adisseo, chúng tôi đã tìm hiểu cơ sở dữ liệu NIRS của họ gồm 77,621 mẫu SBM được đánh giá từ năm 2018 đến năm 2021 từ Argentina, Brazil và Hoa Kỳ.

Kết quả cho thấy SBM thay đổi theo quốc gia sản xuất và có sự biến thiên tùy theo năm thu hoạch đậu nành. Nhìn chung và quan sát qua các năm, SBM của Brazil có giá trị CP (Hình 2), chất béo và CF cao nhất nhưng lại có hàm lượng AME và AMEn thấp nhất (Hình 3).

poultry

Những thay đổi này về giá trị dinh dưỡng và năng lượng có vẻ nhỏ. Nhưng khi chúng được đưa vào matrix nguyên liệu thức ăn trong phần mềm công thức tối ưu theo chi phí thấp nhất tạo ra một SBM cho mỗi quốc gia sản xuất thì kết quả của chúng tôi cho thấy sự khác biệt đáng kể về chi phí thức ăn.

poultry

Chúng tôi đã sử dụng dữ liệu trung bình gần đúng (average proximate), hàm lượng a-xít amin và năng lượng, cũng như hệ số tiêu hóa được quan sát thấy bởi PNE trong SBM được sản xuất tại Argentina, Brazil và Hoa Kỳ vào năm 2020 và 2021.

GIÁ TRỊ CỦA VIỆC PHÂN LOẠI BÃ ĐẬU NÀNH THEO NGUỒN GỐC SẢN XUẤT

Chi phí thức ăn cho thấy việc xây dựng công thức với SBM của Hoa Kỳ có thể làm cho khẩu phần của gà thịt và gà đẻ rẻ hơn so với khẩu phần dùng SBM của Argentina và Brazil. Sự khác biệt về chi phí thức ăn so với thức ăn có bổ sung SBM của Hoa Kỳ được trình bày trong Bảng 1.

poultry

Sử dụng cùng công thức do Pope và cộng sự (2023) sử dụng,  chúng tôi ước tính giá trị SBM tương đối (Bảng 2) của SBM Argentina và Brazil so với SBM của Hoa Kỳ trong hai năm. Kết quả cho thấy giá trị SBM tương đối thấp hơn ở SBM của Argentina và Brazil.

poultry

SBM của Hoa Kỳ sẽ có mức giá cao hơn từ 17.77 đến 32.45 USD/MT so với SBM được sản xuất tại Argentina và Brazil khi sử dụng trong khẩu phần của gà thịt và gà đẻ.

Khẩu phần cho gà thịt giai đoạn khởi đầu (starter), tăng trưởng vỗ béo (grower) và xuất chuồng (finisher) cùng bốn khẩu phần cho gà đẻ được xây dựng để đáp ứng các khuyến nghị về di truyền giống gia cầm. 

Thông tin này xác nhận rằng SBM nên được phân loại theo nguồn gốc sản xuất và những thay đổi nhỏ về hàm lượng dinh dưỡng và năng lượng đều có thể ảnh hưởng đáng kể đến chi phí thức ăn.

Điều này rất quan trọng trong bối cảnh thị trường biến động. Ngoài ra, việc phân loại sẽ tăng khả năng đáp ứng các thông số khẩu phần và đạt được kết quả năng suất gia cầm mong muốn.

 

THAM GIA CỘNG ĐỒNG GIA CẦM CỦA CHÚNG TÔI

Truy cập vào các bài viết PDF
Cập nhật thông tin qua bản tin của chúng tôi
Nhận tạp chí ở dạng số hóa miễn phí

KHÁM PHÁ
AgriFM - Các podcast của ngành chăn nuôi bằng tiếng Tây Ban Nha
https://socialagri.com/agricalendar/en/agriCalendar
agrinewsCampus - Các khóa đào tạo/tập huấn cho ngành chăn nuôi